—————————
Được rồi, tôi thầm nghĩ vào buổi chiều sau đó. Có thể Ángel muốn lừa chúng tôi, nhưng tôi phải tin tưởng vào cậu Đuốc Sống. Ángel nói rằng Caballo có thể đang đi đến thị trấn Creel, nhưng chúng tôi phải khẩn trương lên: nếu chúng tôi không bắt kịp anh ta, thì chẳng thể biết được anh ta sẽ xuất hiện ở chỗ nào sau đó. Gã Ngựa Trắng thường biến mất trong vài tháng; không ai biết anh ta đi đâu và khi nào anh ta quay lại. Nếu bỏ lỡ, thì chúng tôi có thể không còn cơ hội nữa.
Và Ángel chắc chắn đã không nói dối về một chuyện, khi tôi cảm thấy sức mạnh lạ lùng ở đôi chân của mình: ngay trước khi chúng tôi bắt đầu chuyến leo ra khỏi thung lũng, anh ta đưa cho tôi một cái ca bằng thiếc lồi lõm chứa đầy một thứ gì đó mà anh ta hứa là sẽ có ích.
“Anh sẽ thích nó cho mà xem,” anh ta trấn an tôi.
Tôi ngó vào cái ca. Trong đó có một thứ chất lỏng nhầy nhớt gì đó, trông giống bánh pudding làm từ gạo nhưng không có gạo, và bong bóng có đốm đen mà tôi tin chắc là trứng ếch đang ấp dở. Nếu đang ở bất kì một nơi nào khác thì tôi sẽ nghĩ đây là một trò đùa; nó giống hệt như kiểu một đứa trẻ múc ra một ít cặn bẩn trong bể cá để xem nó có thể lừa tôi nếm thử không. Tôi đoán, đó chắc là một loại rễ cây lên men trộn với nước sông – đồng nghĩa với việc nếu mùi vị của nó không quật ngã tôi, thì đám vi khuẩn sẽ lo việc đó.
“Tuyệt đấy,” tôi nói, và nhìn quanh xem có cây xương rồng nào để lén đổ nó đi không. “Nó là cái gì vậy?”
“Iskiate.”
Cái tên này nghe có vẻ quen quen… và tôi chợt nhớ ra. Ngài Lumholtz kiên cường đã từng bước lảo đảo vào một căn nhà người Tarahumara để tìm kiếm thức ăn khi ông đang trong một chuyến thám hiểm đầy gian khổ. Phủ bóng phía trước là một ngọn núi mà ông ta phải lên tới đỉnh trước khi mặt trời lặn. Lumholtz lúc đó đã kiệt sức và tuyệt vọng; ông ta không còn chút sức lực nào để leo lên đó nữa.
“Tôi tới một cái hang vào một buổi chiều, trong hang, vừa hay, một người phụ nữ đang làm món thức uống này,” sau này, Lumholtz viết. “Tôi đã rất mệt và không biết cách nào leo lên triền núi để tới được chỗ cắm trại của mình, với độ cao khoảng 600 mét. Nhưng sau khi được thoả mãn cơn đói và khát với một chút iskiate,” ông ta tiếp, “ngay lập tức, tôi cảm thấy một nguồn sức mạnh mới, và, trước sự kinh ngạc của chính mình, tôi leo được hết độ cao đó mà không phải quá nỗ lực. Kể từ đó, tôi luôn coi iskiate như một món không thể thiếu, vừa củng cố sức mạnh, vừa làm tỉnh táo, tới mức mà tôi có thể gọi nó như một phát kiến mới.”
Red-Bull tự chế! Cái này thì tôi nhất định phải thử. “Tôi sẽ để dành nó cho lúc sau,” tôi nói với Ángel. Tôi trút chỗ iskiate vào một bình nước đeo hông chứa khoảng nửa bình nước đã khử trùng bằng mấy viên iodine, rồi bỏ vào đó thêm khoảng hai viên nữa cho chắc. Tôi đã mệt lử, nhưng không giống như Lumholtz, tôi chưa tuyệt vọng đến mức sẵn sàng chấp nhận rủi ro bị tiêu chảy mãn tính cả năm trời do các loại vi khuẩn sống trong nước.
Nhiều tháng sau, tôi biết được rằng iskiate còn được biết đến cái tên là chia fresca – “chia mát lạnh”. Nó được pha chế bằng cách hoà tan hạt chia vào nước với một chút đường và một vắt chanh. Xét về giá trị dinh dưỡng, một muỗng lớn chia giống như sinh tố làm từ cá hồi, rau chân vịt, và hormone nhân tạo. Dù có kích cỡ rất nhỏ, các hạt này chứa đầy omega-3S, omega-6S, protein, can-xi, sắt, kém, chất xơ, và các chất chống oxy hoá. Nếu phải chọn một loại thức ăn duy nhất để sống sót trên đảo hoang, bạn không thể tìm thấy thứ gì tốt hơn hạt chia, ít nhất là nếu như bạn quan tâm đến việc tạo cơ bắp, hạ cholesterol, và giảm nguy cơ các bệnh tim mạch; sau một vài tháng ăn hạt chia, bạn thậm chí có thể bơi vào đất liền. Chia đã từng được quý trọng tới mức, người Aztec thường dâng thứ hạt này lên cho nhà vua để tỏ lòng kính trọng. Những người chạy bộ Aztec đã từng ăn hạt chia khi tham gia chiến trận, và người Hopis thì cung cấp năng lượng cho mình bằng hạt chia khi họ tham gia các cuộc chạy huy hoàng từ Arizona tới Thái Bình Dương. Bang Chiapas của Mexico thực ra được đặt tên theo loại hạt này; nó từng đứng thứ hạng ngang với ngô và đậu như cây trồng sinh lời. Mặc dù có giá trị cao như vậy, nhưng chia lại dễ trồng đến mức kì cục; nếu bạn có một Chia Pet (hình nộm con thú dùng để trồng cây Chia), thì thực ra bạn chỉ còn vài bước đơn giản trước khi tạo ra cho mình một mẻ thức uống ma quỷ.
Và tôi lại phát hiện ra rằng thứ đồ uống ma quỷ đó lại ngon ghê gớm, sau khi viên iodine đã tan đủ để thử vài ngụm. Dù có cả dư vị thuốc từ mấy viên iodine, thì món iskiate vẫn trôi xuống như rượu punch hoa quả với một thoáng vị chanh dễ chịu. Có thể, do phấn khích với cuộc săn tìm, nhưng chỉ sau vài phút, tôi đã có cảm giác tuyệt vời. Ngay cả cơn đau đầu giật giật nhẹ mà tôi phải chịu suốt cả buổi sáng do ngủ trên nền đất lạnh đêm trước đó cũng biến mất luôn.
Salvador liên tục thúc bách, đua với ánh sáng ban ngày tới rìa thung lũng. Chúng tôi suýt nữa thì kịp. Nhưng khi còn khoảng hai giờ leo trước mắt, thì mặt trời biến mất, bóng đêm phủ lên thung lũng, tối tới mức tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy chỉ là các sắc thái khác nhau của màu đen. Chúng tôi tranh luận xem có nên trải túi ngủ ra và cắm trại qua đêm ngay tại đó, nhưng chúng tôi đã hết thức ăn và nước uống hơn một giờ trước và nhiệt độ thì đang tụt xuống mức lạnh cóng. Nếu có thể lần tìm đường trèo lên thêm khoảng một dặm nữa, thì chúng tôi có thể có đủ ánh sáng phía trên rìa thung lũng để ra được bên ngoài. Và chúng tôi quyết định sẽ thử phương án này; tôi gét cái ý nghĩ phải nằm run rẩy cả đêm trên một đoạn đường mòn ngay rìa vách đá.
Trời tối tới mức, tôi chỉ có thể bám theo Salvador nhờ tiếng ủng lạo xạo của anh tạ. Làm thế nào anh ta có thể tìm thấy các lối rẽ trên những chỗ ngoặt dốc như thế này mà không rơi khỏi bờ đá, tôi thực sự không muốn biết. Nhưng anh ta đã chứng minh là tôi đã sai với khả năng dò đường siêu phàm của mình khi lái xe xuyên qua rừng cây, vì vậy, tôi phải chấp nhận im lặng, tập trung chú ý tới tất cả các chuyển động của anh ta, và… và…
Chờ đã. Tiếng ủng lạo xạo của anh ta đâu rồi?
“Salvador?”
Không có tiếng trả lời. Chết tiệt.
“Salvador!”
“No pases por aquí!” anh ta gọi vọng từ đâu đó phía trước tôi. Đừng đi lối này!
“Có chuyện gì….”
“Calla.” Im đi.
Tôi im và đứng yên trong bóng tối, thắc mắc không hiểu điều quái quỉ gì đã xảy ra. Vài phút trôi qua. Không có tiếng động nào của Salvador. “Anh ta sẽ quay lại,” tôi tự nhủ. “Anh ta chắc chắn đã phải hét lên nếu bị ngã. Mình chắc sẽ phải nghe thấy gì đó. Một tiếng va đập. Một điều gì đó. Nhưng quái thật, mãi mà anh ta….”
“Bueno.” Một tiếng kêu vọng tới từ đâu đó phía trên tôi và dịch về bên phải. “Đằng này ổn rồi. Nhưng đi từ từ thôi!” Tôi xoay về phía giọng anh ta và nhích dần từng tí một về phía ấy. Bên trái, tôi cảm thấy nền đất tụt sâu xuống rất xa. Salvador đã tới gần việc bước thẳng vào khoảng không đến mức nào, tôi thực sự không muốn biết.
Khoảng mười giờ đêm đó, chúng tôi lên tới rìa vách núi và chui vào túi ngủ, lạnh thấu xương và mệt rã rời. Sáng hôm sau, chúng tôi tỉnh dậy trước khi mặt trời mọc và đi thật nhanh về chỗ chiếc xe bán tải. Khi bình minh lên, chúng tôi đã đi được một quãng trên con đường mòn xóc nảy, uốn lượn, con đường được đồn là của gã Ngựa Trắng.
Mỗi lần gặp một nông trang hay một ngôi làng nhỏ, chúng tôi đều dừng lại để hỏi xem có ai biết Caballo Blanco hay không. Và tất cả mọi nơi – trong khu làng mạc ở Samachique, trong ngôi trường học ở Huisichi – chúng tôi đều thấy người ta nói giống nhau: Sí, tất nhiên! Anh ta vừa đi qua tuần trước… một vài ngày trước… ngày hôm qua… Các anh vừa bỏ lỡ anh ta xong…
Chúng tôi tới một đám các túp lều đổ nát và dừng lại để tiếp thêm thực phẩm. “Ahhh, ten cuidado con ese,” bà già đứng phía sau quầy trong một cái lán bên lề đường nói khi bà ta đưa cho tôi một túi khoai tây phủ bụi và một lon Coke ấm bằng đôi bàn tay gầy, run rẩy. “Cẩn thận với gã đó. Tôi đã nghe kể về Caballo. Anh ta là một võ sĩ bị hoá điên. Một người bị chết, nên anh ta bị mất trí. Anh ta có thể tay không giết chết anh đấy. Và,” bà ta thêm, đề phòng tôi quên mất, “anh ta bị điên.”
Nơi cuối cùng người ta nhìn thấy anh ta là một thị trấn mỏ cũ kĩ tên là Creel, nơi mà một người phụ nữ ở quầy bán taco bảo chúng tôi rằng cô vừa nhìn thấy anh ta sáng hôm nay, đi bộ trên đường ray xe lửa ra phía rìa thị trấn. Chúng tôi đi theo tới tận cuối đường ray, vừa đi vừa hỏi thăm, cho tới khi đến được toà nhà cuối cùng: khách sạn Casa Pérez. Ở đó, tôi vừa hồi hộp, vừa lo lắng, khi biết rằng, anh ta phải có mặt ở đây vào đúng lúc này.
Có thể, việc tôi ngủ quên trên chiếc ghế xô-pha trong góc phòng là một điều hay. Nhờ đó, ít nhất là, tôi được ẩn mình trong bóng tối và được ngắm nhìn gã lang thang cô độc kia kĩ lưỡng một chút – trước khi anh ta nhìn thấy tôi và phóng chạy mất vào hoang vu.
—- Hết chương 6 —-
Session expired
Please log in again. The login page will open in a new tab. After logging in you can close it and return to this page.