Dick Beardsley đọ sức cùng Alberto Salazar

salazar_beardsley_mendoza_1

ĐỌ SỨC DƯỚI ÁNH MẶT TRỜI

Bruce Vu

Thứ Hai, ngày 19 tháng 4 năm 1982:

Ngày Ái Quốc (đã từ lâu, ngày giải đua Marathon diễn ra ở Boston vào thứ Hai, tuần lễ thứ ba của tháng 4 được gọi là ngày Ái Quốc) hôm nay là một ngày tương đối ấm áp khắp thành phố Boston, điều kiện tốt cho mọi thứ ngoại trừ chạy bộ 26.2 dặm.

Sau khi lái xe đến nơi xuất phát ở thành phố Hopkinton, Beardsley và HLV của anh ta, Bill Squires, tránh không vào hội trường thể dục của trường trung học nơi các VĐV ưu tú đang tập trung. Suốt 4 tháng qua, Beardsley không tránh khỏi nghĩ ngợi về Alberto Salazar trong những lúc thức giấc cũng như trong khi ngủ. Vì thế HLV Squires muốn Beardsley tránh xa khí thế sôi động của giải đua.

Và họ đã tạm trú ở một căn nhà tư gia trong thành phố. Squires bắt đầu cuộc đối thoại với mụ chủ nhà bằng những sáo ngữ rỗng tuếch: “Chào bà, khỏe không? Ngày đẹp giời, ngôi nhà đáng yêu, để tôi giới thiệu anh Dickie Beardsley đến từ Minnesota, anh ta làm nghề chăn nuôi và lấy sữa bò, đừng có nhìn cọng cỏ khô dính trên răng của anh ta mà đánh giá nhầm. Chỉ vài phút nữa thôi, anh ta sẽ đua giải Boston Marathon, và xin bà giữ bí mật giữa hai chúng ta, Dickie đây có cơ hội thắng giải nếu anh ta biết giữ mồm miệng và biểu hiện sự phấn khích trên những con dốc.”

Trong lúc Squires và bà cụ ngồi đó chém gió thì Beardsley căng cơ, uống nước, liên tục đi vào nhà vệ sinh, và nghe nhạc của Dan Fogelberg. Anh ta đục mấy lổ nhỏ trên chiếc mũ thợ sơn mà Squires cho anh đội để che nắng nhằm mục đích tạo lổ thông hơi.

Mười hai giờ kém 15 phút có lệnh gọi tập trung runners. Anh ta chạy chậm ra ngoài đường, nhắm về phía trước của vạch xuất phát nơi được căng dây dành cho các VĐV ưu tú, nhưng có hàng nghìn VĐV phong trào đứng giữa anh và vạch xuất phát. Anh cố gắng vượt qua đám đông nhưng vô ích.

Beardsley bắt đầu hốt hoảng. Anh có cảm giác như đang vả mồ hôi trong một cơn ác mộng, khi anh cố hết sức để đến đích nhưng không thể cử động được. Thế rồi Beardsley trở lại với cá tính của mình, để mọi người chú ý: “Hey, tránh ra cho tao đi! Tao là Dick Beardsley, mẹ kiếp! Tao phải lên trên hàng đầu gấp!”

Những runners khác đang bận rộn với động tác chuẩn bị sau cùng nhìn anh ta bằng những ánh mắt lạnh lùng, nhưng rồi cũng có người nhận ra anh ta, và miệng truyền miệng lan nhanh trong đám đông: “Lưu ý, Dick Beardsley đây bà con ơi! Tránh ra, để Dick đi qua.”

Đám đông tẻ ra, và cơn ác mộng của Beardsley biến thành giấc mơ, theo sau là một con đường rõ ràng đến vạch xuất phát.

Ở dặm thứ 5:

Nhóm dẫn đầu chạy ngang một cái ao, có một cặp đang thong thả trên một chiếc ca-nô, thưởng thức một buổi trưa đẹp trời. Bill Rodgers (đương kim vô địch) nói đùa với Beardsley, “Hey, Dick, bạn có ước gì mình đang ở đó ngay lúc này không?” Nom Bill và Dick có vẻ như hai ông chủ trẻ tuổi đang trên đường đến văn phòng làm việc, nhìn qua cửa sổ của tàu hỏa.

Thế rồi, chỉ vài dặms sau đó, Ron Tabb và Dean Matthews tung ra một đòn tăng tốc. Dẫu biết rằng quá sớm để lo lắng nhưng những VĐV hàng đầu không thể bỏ qua được, họ phải tiêu hao năng lượng để kiềm chế cặp này. Beardsley chỉ cười trong khi Salazar nổi đóa.

Đám đông vây kín. Hầu hết cổ vũ cho Salazar, người con của địa phương. Khi Salazar vẩy tay chào người hâm mộ của anh ta, Beardsley cũng bắt chước làm theo, anh ta vẩy tay và cười toe toét như đây là cuộc diễn hành ngày lễ độc lập 4 tháng 7 ở quê nhà Minnesota và mọi người đang cổ vũ cho mình. Salazar không lấy làm thích thú với cái thái độ của Beardsley.

Salazar không lấy làm thích thú hầu hết tất cả mọi thứ. Anh ta tiếp tục nổi bật trong nhóm dẫn đầu, tỏ ra mạnh mẽ, nhưng Beardsley cảm thấy có điều gì không ổn khi anh ta để ý thấy Salazar không uống nước bất kể ánh mặt trời chói rực và 70 độ F.

Ở thời điểm đó không có những trạm nước từ ban tổ chức. VĐV phải nhận nước hay bất cứ thứ gì khác từ khán giả. Thỉnh thoảng Beardsley chộp một cốc nước, đổ lên trên chiếc mũ thợ sơn của mình, uống một ngụm, rồi đưa qua chia cho Salazar, nhưng anh ấy lúc nào cũng từ chối

Qua khỏi dặm thứ 13:

Khi ngang qua trường đại học Wellesley và hàng dài phụ nữ hò hét inh ỏi, nhóm dẫn đầu giờ chỉ còn có Rodgers, Ed Mendoza, Beardsley và Salazar.

Ở tuổi 34, huyền thoại Rodgers, 4 lần vô địch Boston, ra vẻ mất phong độ, và Mendoza cũng có dấu hiệu mờ dần. Bây giờ mối lo duy nhất đối với Salazar là Beardsley, người mà Salazar đánh giá là có tài năng. Beardsley có không ít thành tích ấn tượng ở vài cuộc đua marathons, từng chạy 2:09 ở giải đua Grandma ở Duluth, vô địch giải London năm ngoái, nhưng ở các cự ly ngắn thì chưa ấn tượng cho lắm – thành tích 10K tốt nhất của Beardsley vẫn còn kém Salazar đến một phút rưỡi.

Chỉ cần nhìn anh chàng với chiếc mũ thợ sơn ngốc nghếch, nốc nước từ bất kỳ đứa bé nào đưa cho, Salazar thầm nghĩ là Beardsley thiếu phẩm chất. Vì thế nếu Beardsley và HLV Squires của hắn nghĩ rằng họ sẽ hạ mình trên những ngọn đồi tức là họ đang mơ. Salazar biết mình nhanh hơn, lì lợm hơn, và chuẩn bị chu đáo hơn. Những ngọn đồi này thuộc về mình.

Cách đó vài mét, Beardsley cũng cùng một ý nghĩ. Anh ta đã mất hết mùa đông tập luyện ở Atlanta, không phải vì để tránh khí hậu giá băng của miền Bắc, mà bởi vì ở Georgia, khác với Minnesota, có những ngọn đồi tương tự như Boston. Vào tháng 4, anh rời Georgia để hoàn tất quá trình chuẩn bị cho Boston, nơi anh sẽ làm quen với đường đua. Vừa đến nơi không được bao lâu thì cơn gió Đông Bắc ùa về mang theo những đợt tuyết và gió mạnh. Trong lúc Beardsley chuẩn bị một bài tập then chốt trên ngọn đồi Heartbreak bao gồm chạy lên và xuống 8 lần, Squires nhìn qua cửa sổ và nói học trò của mình khó quá bỏ qua đi. Beardsley năn nĩ HLV của mình cho anh ta thử. Squires nói: “Tôi không nghĩ là mình có thể lái xe đến Heartbreak chứ đừng nói đến chạy bộ.” Thế nhưng cuối cùng Squires cũng phải chịu thua. Ông lái xe với một tốc độ rùa bò trên con đường hoang vắng, và thả Beardsley cách Heartbreak 3 dặm.

“Chúa ơi! Dickie, nhìn vào đám tuyết kìa. Thôi về nhà đi, không thì cậu sẽ trợt chân, té và mất mạng.”

“Thầy cứ để em thử.”

Beardsley ra khỏi xe và bắt đầu chạy về hướng Heartbreak. Ban đầu anh chạy nhẹ, nhưng chỉ sau vài bước là bắt đầu tăng tốc. Dấu chân của anh hằn in những vết lõm trinh nguyên trên mặt tuyết; cơn gió lạnh buốt xé cay mắt khiến anh phải nhắm mắt lại và di chuyển bằng xúc giác, thính giác và linh tính cũng như trí tưởng tượng – khi biết rằng ngay trong khoảnh khắc tuyệt vọng này, Alberto Salazar đang chạy ở một nơi nào đó ấm áp.

Anh hoàn tất 8 vòng trên ngọn đồi Heartbreak theo đúng đề án. Sau khi kết thúc, anh lặng lẽ báo cáo với thầy của mình là anh đã sẵn sàng. Những ngọn đồi này thuộc về mình.

Qua dặm thứ 17:

Trước khi đến sở cứu hỏa ở chân đồi Braeburn, Rodgers bắt đầu phai mờ; và kế đó là Mendoza cũng tụt lại. Bây giờ chỉ còn có Beardsley và Salazar. Beardsley bước lên dẫn đầu và giữ ở vị trí này suốt 9 dặms kế tiếp.

Khi những ngọn đồi trải ra, Beardsley bắt đầu tung những cú chưởng liên tiếp. Anh tăng tốc 400m, rồi giảm lại 200m. Anh lập lại chu kỳ này hai hay ba lần. Nhưng đến đợt tăng tốc 400m lần thứ ba, sau đó anh chỉ giảm tốc có 100m. Rồi, với hy vọng làm Salazar bất ngờ, anh bắt đầu lao nhanh. Nhưng Salazar vẫn đuổi theo từng bước, anh ta lúc nào cũng sánh vai cùng Beardsley, và thậm chí có những chiến thuật của riêng mình. Mặt trời ở sau lưng họ cho nên Beardsley thấy rõ bóng của Salazar trên nền đường. Khi chiếc bóng bắt đầu di chuyển về phía trước là lúc Beardsley tăng tốc đủ để chạy trước nó. Anh biết rõ là nếu để Salazar qua mặt sẽ tạo ảnh hưởng tâm lý bất lợi cho mình.

Ngọn đồi Heartbreak đến và đi. Hai runners vẫn gắn bó bên nhau.

Sau khi xem xong phần đầu của giải đua trên TV và khám phá rằng cuộc tranh tài đặc biệt đang diễn ra với hai VĐV lột trần đến tận xương tủy và với nghị lực phi thường đang di chuyển trên các con đường trong thành phố, các công dân của Boston đổ xô ra đường để mục kích màn kết thúc. Những ông bố đội con lên trên vai và bắt chúng để ý theo dõi. Theo thống kê có khoảng 2 triệu người đã ra đường theo dõi một phần của giải đua Boston Marathon năm 1982.

Beardsley vừa vượt qua ngọn đồi Heartbreak với hơi thở của Salazar sát bên cổ. Đám đông tràn lấn đường đua, họ la hét lớn quá đến nỗi Beardsley không thể tập trung suy nghĩ. Anh ta không còn có cảm giác ở chân. Chúng như thuộc về người khác.

Hai mươi mốt dặm của giải đua lần thứ 86, và anh hiện đang chạy những bước mạnh mẽ trước huyền thoại Salazar, người cũng đang bị cơn đau hành hạ. Beardsley biết rõ điều đó, vì nếu không bị đau đớn thì chắc chắn Salazar đã qua mặt mình từ lâu rồi.

Năm dặm là điều không thể tưởng tượng được. Beardsley quyết định chạy một dặm nữa thôi. Điều đó dễ hơn, hoặc ít nhất khả thi. Chỉ cần dẫn trước Salazar một dặm nữa thôi. Sau đó, tính sau!

Beardsley mất cảm giác đôi chân. Một dặm nữa.

Đồng thời, Salazar chiến đấu với cơn đau. Từng mảng đau bùng phát dọc theo đùi trái. Ở những dặm cuối cùng anh ta không còn đổ mồ hôi nữa, chiếc áo đang mặc cứng lại, như bị bao bọc bởi máu khô.

Vấn đề quan trọng là không để thua. Đơn giản có thế thôi. Anh ta có thể quên mất thành tích thời gian để tập trung vào một mục tiêu tối cao duy nhất. Anh có thể thua Henry Rono ở cuộc đua 10K, nhưng không thể để thua giải marathon, nhất là vào tay một kẻ tầm thường với chiếc mũ thợ sơn. Không chóng thì chày, Beardsley sẽ nổ banh và rơi xuống thành từng mảnh vụn như một tên lửa bị tan xác. Chỉ cần giữ vững tốc độ này, sau đó chỉ việc qua mặt đối thủ.

Alberto Salazar không sợ bất kỳ đối thủ nào, hay ít nhất là không có ai làm cho anh ta sợ.

Dick Beardsley vẫn không có cảm giác ở đôi chân. Dặm thứ 24 đã qua đi, vậy là chiến thuật 1-dặm coi có vẻ hiệu quả.

Anh tiếp tục theo dõi cái bóng Salazar. Bất thình lình, nó lớn dần lên trên nền xi-măng. Beardsley tự hỏi mình có bị ảo giác đánh lừa không. Nhưng đó chỉ là chiếc xe bus chở ký giả báo chí đến vạch kết thúc. Đám đông dầy quá đến nỗi xe bus phải chạy vào đường đua của VĐV. Khi chiếc xe bus lướt qua, cái kính hậu quẹt phải vai Beardsley. Anh ta đưa nắm đấm về hướng chiếc xe để bày tỏ thái độ căm phẩn.

Đến dặm thứ 25 thì Beardsley không cần phải nhìn vào chiếc bóng nữa vì hình như họ đã cùng chạy bên nhau suốt cả cuộc đời. Anh ta cảm nhận sự hiện diện của Salazar còn rõ ràng hơn là đôi chân suy nhược của mình. Chúa ơi, anh ta thầm nghĩ, chỉ còn một dặm nữa và mình có thể thắng giải đua này.

Còn nửa dặm. Tiếp tục di chuyển trong một trạng thái hồn lìa khỏi xác và bồng bềnh trên mây, Beardsley thoáng nghĩ về cha mình. Khi anh tốt nghiệp trung học, món quà cha cho anh là một hứa hẹn chiếc vé máy bay cho một hành trình đến Boston Marathon trong tương lai. Những giọt nước mắt ứa ra. Beardsley gạt phắt đi, tự nhủ phải tập trung công việc hiện tại.

Beardsley cố gắng một cú bộc phát cuối cùng, nhưng chuốc ngay thất bại, một cơn đau bùng lên từ đùi phải. Chân nhão ra thành cao su, những thớ thịt co xiết nổi cộm lên.

Salazar qua mặt anh ta. Bầu trời hầu như sụp tối.

Đoàn xe máy của cảnh sát rú qua mặt để hộ tống Salazar, và chạy thành một đội hình bao quanh kẻ dẫn đầu mới. Những chiếc xe hai bánh chen chúc nhau và đây là lần đầu tiên trong ngày, Dick Beardsley mất tầm nhìn của đối thủ.

Khi Beardsley nghĩ là không còn điều gì tệ hơn có thể xảy ra cho mình thì điều tệ hơn đã xảy ra. Không lâu sau khi mất bóng của Salazar và chỉ còn chưa đến một dặm để chạy thì Beardsley dẵm phải ổ gà. Anh tự nhủ là nó sẽ xé rách cơ; thế thì bây giờ chỉ còn cách bò về đích. Nhưng rồi, thay vì làm cho cơn đau trầm trọng hơn, bước vào ổ gà đã làm căng cơ đùi khiến các vòng xoắn được thẳng ra.

Beardsley bắt đầu chạy nước rút. Anh cúi đầu xuống và bơm hai cánh tay. Anh đã tìm thấy một số mới để sang. Anh cảm thấy các thiên thần vừa xốc mình dậy. Rẽ gắt vào bên phải trên con đường Hereford, bóng Salazar hiện ra.

Trên đỉnh đồi là một cua rẽ trái trước khi bước vào đoạn thẳng cuối cùng. Salazar và đoàn xe hộ tống rẽ vào đó và đám đông ở vạch kết thúc bắt đầu điên cuồng, hò hét cổ vũ cho chàng trai của thành phố.

Beardsley đã phải len lõi giữa đoàn xe máy hai bánh. Những viên cảnh sát công lực cứ tưởng là anh ta đã bỏ cuộc rồi, nhưng anh ta đã trở về từ cõi chết. Họ đực mặt ra và tỏ ra kinh ngạc khi Beardsley chạy vèo qua.

Salazar liếc nhìn qua vai, cũng nghĩ là Beardsley mất dạng từ lâu. Nhưng thay vì vậy anh thấy hắn ngay sát bên đang săn đuổi mình. Đôi mắt của Salazar trợn tròn và to như chiếc đèn pha. Nhìn về phía trước là vạch kết thúc, 100 mét cuối cùng, với Beardsley theo đuổi như một con chó săn.

Ở trong phòng truyền hình đặt ở điểm kết thúc, Squires tiếp tục la hét: “Dickie! Dickie! Dickie!”

Tất cả đã rõ ràng đối với Salazar. Trước mắt anh ta chỉ có vạch kết thúc, nó nằm đâu đó giữa đám đông hỗn loạn và hàng chắn của cảnh sát. Và một quy luật không thể chối cải là anh ta không chịu thua cuộc.

Cú nước rút trong tuyệt vọng tột cùng, nổ lực vinh quang, cơn đau, không khí hỗn loạn, và giá buốt. Dick Beardsley thật lì lợm, nhưng Alberto Salazar đã không chịu thất bại.

oOo

Bruce Vu
FL, USA
7 tháng 4, 2017

About the Author Bruce Vũ

Bruce Vũ là khoa học gia với công việc nghiên cứu toàn thời gian ở trung tâm vũ trụ Hoa Kỳ (NASA Kennedy Space Center) và là giáo sư bán thời gian, phụ trách giảng dạy các môn kỹ thuật động lực học. Ngoài giờ làm việc hành chánh, Bruce dành phần lớn thời gian trên những cung đường chạy bộ vào sáng sớm trước khi đi làm và trong phòng gym sau giờ làm việc. Sở thích hiện tại của anh là nghiên cứu, dịch thuật, và sáng tác các bài viết có liên quan đến đề tài chạy bộ.

  • […] Runner’s World 50 Selects là tuyển tập 50 bài báo hay nhất đăng trên tạp chí Runner’s World, kỉ niệm 50 năm ngày thành lập. Chay365 đã có dịp giới thiệu một bài trong số này, Duel in the Sun (Đọ sức dưới ánh mặt trời).  […]

  • […] with Trout” (Chạy cùng Trout) là một trong 50 bài báo hay nhất được đăng trên tạp chí Runner’s world bình chọn nhân dịp kỷ niệm 50 năm […]

  • […] Dick Beardsley đọ sức cùng Alberto Salazar […]

  • […] trở thành “epic”. Nhưng Boston 1982 đúng xứng đáng với chữ “epic”. Bài báo “Duel in the sun” được chọn là một trong những bài hay nhất trong lịch sử 50 năm của Runner’s […]

  • […] Đọ sức dưới ánh mặt trời: Câu chuyện v&#7… […]

  • >
    1 Shares