BAA vừa thông báo danh sách các VĐV elite tranh tài ở Boston Marathon ngày 18/4/2022. Với việc London Marathon 2022 chuyển xuống tháng 10, và Dubai Marathon cuối tháng 1 bị hoãn, Boston cùng với Tokyo trở thành hai lựa chọn đáng kể nhất để giới elite tranh tài vào mùa xuân năm nay. Tuy nhiên Boston rõ ràng danh giá hơn Tokyo, chưa kể giải chạy ở Nhật vẫn có nguy cơ bị huỷ.
Vì lẽ đó, dàn siêu sao sẽ tụ họp về phố Hopkinton, với danh sách hoành tráng nhất lịch sử của giải marathon thường niên lâu đời nhất thế giới này. Hãy cùng Chay365 điểm qua những cuộc đối đầu đáng chú ý nhất tại bảng nữ.
Mục lục
Đây sẽ là cuộc so tài được mong chờ nhất, không chỉ riêng ở Boston, không chỉ riêng giới nữ, mà của cả thế giới chạy bộ. Bởi đơn giản, đó là màn trình diễn 1-2 của 2 nữ VĐV marathon xuất sắc nhất thế giới hiện nay, đều đến từ Kenya. Peres Jepchirchir (PR 2:17:16) là đương kim vô địch Olympic và đương kim vô địch New York City Marathon, trong khi Joyciline Jepkosgei là nhà vô địch London Marathon. Thành tích của Jepkosgei ở London (2:17:43, PR) cũng là thành tích tốt nhất thế giới trong năm 2021.
Lần gần nhất Jepchirchir so giày cùng Jepkosgei là ở Valencia Marathon 2020, khi hai cô chiếm trọn hai vị trí dẫn đầu (Jepchirchir 2:17:16, Jepkosgei 2:18:40). Năm 2021 vừa rồi, Jepkosgei có đôi chút thất vọng khi hụt suất dự Olympic, nhưng cô đã buộc tất cả phải nhắc đến mình khi chiến thắng ở giải đấu không kém phần cạnh tranh, London Marathon. 16 tháng kể từ Valencia, giờ là lúc để khẳng định ai là người nhanh nhất.
Tuy nhiên, rất có thể cả hai siêu sao kia sẽ không được nhận vòng nguyệt quế, bởi còn nhiều tên tuổi sáng giá khác tranh tài. Bao gồm Degitu Azimeraw của Ethiopia (PR 2:17:58, tốt thứ nhì năm 2021), Roza Dereje về hạng 4 ở Olympic, cũng như Edna Kiplagat, người sở hữu 5 danh hiệu vô địch Major. Không thể không kể đến Viola Cheptoo, á quân New York City năm ngoái, ngay ở giải marathon đầu đời. Tổng cộng, có 7 chân chạy sub2:20 góp mặt tại giải đấu năm nay – một kỉ lục trong lịch sử Boston.
Đáng lưu ý nhất là Azimeraw, còn trẻ trung và đầy năng lượng (cô mới 22 tuổi thôi), nhưng đã có thành tích cực kỳ đáng nể, 2:19:26, 2:19:56, và 2:17:58 trong cả ba giải marathon cô từng tham gia.
Đội chủ nhà xứ cờ hoa cũng cử những VĐV ưu tú nhất tranh tài. Cái tên nổi bật nhất đương nhiên là Molly Seidel, chân chạy xuất sắc nhất nước Mỹ hiện tại. Cô gái nhỏ nhắn này đã chiếm trọn tình cảm của giới hâm mộ với phong cách nhí nhảnh, những dòng tweet chia sẻ cảm giác thèm bia, Strava lộ bài hoàn toàn, và trên hết là thành tích chạy bộ đáng nể của mình.
Đối thủ đáng gờm nhất của Molly là Sara Hall, người đã đánh bại Molly ở London 2020 để giành ngôi á quân đầy thuyết phục. Dù hụt vé dự Olympic Tokyo, Sara vẫn duy trì phong độ với hạng ba ở Chicago 2021.
Xem thêm: Cuộc khổ chiến trong hoả lò và sự xuất hiện của một nữ anh hùng mới
Des Linden cũng quay trở lại đường đua nơi cô giành thắng lợi đầy quả cảm trong một ngày gió lạnh năm 2018. Thời đỉnh cao của Des đã qua, cô chỉ về hạng 17 ở Boston năm ngoái (vị trí tệ nhất trong một giải Major kể từ khi cô bắt đầu tranh tài năm 2007), nhưng kinh nghiệm và sự già giơ của đàn chị này là điều lứa VĐV trẻ không thể xem thường – nhất là khi đường đua Boston luôn tiềm ẩn những bất ngờ, với các con dốc và tiết trời không thể dự đoáan.
Những nữ VĐV Mỹ đáng chú ý khác bao gồm Kellyn Taylor, Stephanie Bruce và Nell Rojas – người Mỹ có thành tích cao nhất ở Boston 2021. Nell Rojas (sinh năm 1987) không chỉ chạy bộ mà còn chơi ba môn phối hợp, cũng như có bằng cử nhân về khoa học thể thao, đồng thời đang điều hành công việc kinh doanh bên cạnh sự nghiệp thể thao chuyên nghiệp. Cô về hạng 9 ở kỳ Olympic Trials năm 2020, và vô địch Grandma Marathon 2019. PR của Nell là 2:27:12.
Stephanie Bruce là một trường hợp đặc biệt. Cô thi đấu chuyên nghiệp các cự ly từ 10K tới marathon, lấy chồng, sinh con, vượt qua giai đoạn hậu sản đầy khó khăn với chứng phân tách cơ bụng sau sinh (Diastasis Recti). Cô vẫn đeo đuổi cuộc chơi ở đẳng cấp cao nhất (PR 2:27:47 ở Chicago 2019), với cơ bụng nhăn nheo, và chỉ hụt vé dự Tokyo 2021 đầy đáng tiếc (nội dung 10K). Thế rồi năm nay, Stephanie được chẩn đoán mắc bệnh tim bẩm sinh – van động mạch chủ hai lá van, bệnh lý có thể dẫn đến một số biến cố trầm trọng khi gắng sức. Trên trang cá nhân, Stephanie ngậm ngùi tuyên bố sẽ giã từ sự nghiệp chuyên nghiệp cuối năm nay, vì thế Boston sẽ là một trong những cuộc chơi cuối cùng của nữ VĐV này. Podium có lẽ ngoài tầm với, nhưng một vị trí trong top 10 sẽ là thành quả hết sức ngọt ngào với cô.
Phiên bản áo Boston dành cho nữ năm nay có một sự tri ân đặc biệt. Phía lưng áo in có in dòng chữ “50 năm” và con số 3:10:26. Đây là thành tích của Nina Kuscsik, nhà vô địch Boston 1972, năm đầu tiên mà nữ giới được chính thức tham gia Boston Marathon.
Dù là giải marathon lâu đời nhất thế giới, tổ chức tại một trong những quốc gia dân chủ và văn minhnhất, các nữ VĐV vẫn phải đi một chặng đường rất dài để nhận được sự thừa nhận chính thức ở Boston. Đã có những người tiên phong sải bước trên con đường huyền thoại từ Hopkinton về phố Boylston, bị đẩy ra khỏi con đường đó, và vẫn kiên cường bám trụ. Như Kathrine Switzer, người mang số bib 261 đã bị giám đốc đường đua giải Boston 1967 chặn lại, từng chia sẻ “Trong một giây, tôi nghĩ rằng mình nên dừng lại. Rõ ràng mình không được chào đón. Nhưng rồi tôi nghĩ rằng, ‘Không, mình đã tập luyện chăm chỉ, mình đã đến đây để chứng minh rằng mình có quyền được chạy, mình sẽ không dừng lại'”. Sự lì lợm và tận hiến là điều mà mọi marathoner đều có thể chia sẻ.
Peres Jepchirchir, KEN, 2:17:16 (Valencia, 2020)
Joyciline Jepkosgei, KEN, 2:17:43 (London, 2021)
Degitu Azimeraw, ETH, 2:17:58 (London, 2021)
Roza Dereje, ETH, 2:18:30 (Valencia, 2019)
Zeineba Yimer, ETH, 2:19:28 (Valencia, 2019)
Edna Kiplagat (40+), KEN, 2:19:50 (London, 2012)
Tigist Girma, ETH, 2:19:52 (Amsterdam, 2019)
Maurine Chepkemoi, KEN, 2:20:18 (Amsterdam, 2021)
Sara Hall, USA, 2:20:32 (Chandler, 2020)
Desiree Linden, USA, 2:22:38 (Boston, 2011)
Viola Cheptoo, KEN, 2:22:44 (New York City, 2021)
Purity Changwony, KEN, 2:22:46 (Ampugnano, 2021)
Charlotte Purdue, GBR, 2:23:26 (London, 2021)
Kellyn Taylor, USA, 2:24:28 (Duluth, 2018)
Molly Seidel, USA, 2:24:42 (New York City, 2021)
Malindi Elmore (40+), CAN, 2:24:50 (Houston, 2020)
Mary Ngugi, KEN, 2:25:20 (Boston, 2021)
Monicah Ngige, KEN, 2:25:32 (Boston, 2021)
Natasha Wodak (40+), CAN, 2:26:19 (Chandler, 2020)
Nell Rojas, USA, 2:27:12 (Boston, 2021)
Stephanie Bruce, USA, 2:27:47 (Chicago, 2019)
Dakotah Lindwurm, USA, 2:29:04 (Duluth, 2021)
Roberta Groner (40+), 2:29:09 (Rotterdam, 2019)
Angie Orjuela, COL, 2:29:12 (Valencia, 2020)
Bria Wetsch, USA, 2:29:50 (Chandler, 2020)
Bác sĩ Viện Tim mạch Quốc gia Việt Nam, giảng viên Bộ môn Tim mạch trường Đại học Y Hà Nội. Thành viên sáng lập Hội những người thích chạy đường dài (Long Distance Runners, LDR) Thành tích cá nhân: 10km: 36:56, HM: 1:20:35, FM: 2:41:25
Session expired
Please log in again. The login page will open in a new tab. After logging in you can close it and return to this page.